Chữa các bệnh kinh niên và suy nhược cơ thể.
Cấp cứu
Bệnh nhiễm trùng
Bệnh tim
Bệnh phổi
Bệnh tiêu hoá
Bệnh tiểu đường
Bệnh mắt
Bệnh rng hàm mặt
Bệnh tai mắt mũi họng
Bệnh xuất huyết
Bệnh trẻ em
Bệnh phụ khoa
Bệnh sản khoa
Bệnh lão khoa
Bệnh tâm thần
Bệnh đau đầu , đau thần kinh
Bệnh xương
Bệnh gan
Bệnh tê thấp
Bệnh da liễu
TUỶ SỐNG, CỘT SỐNG VẢ THẦN KINH CỘT SỒNG
LÀ GỐC SINH RA CÁC BỆNH VỀ:
BỆNH ĐAU TỨC NGỰC, TIM, KHÓ THỞ, HÔ HẤP
BỆNH GAN, MẬT LIÊN HỆ ĐẾN THẦN KINH
BỆNH LÁ LÁCH, TUỴ TẠNG
BỆNH DẠ DẠY, RUỘT NON, RUỘT GIÀ
BỆNH VỀ THẬN, BÀNG QUANG, TIẾT NIỆU
BỆNH VỀ THẦN KINH TOẠ CỐT, TÊ THẤP,
PHONG THẤP…
BỆNH VỀ ĐAU THẦN KINH LIÊN SƯỜN, ĐAU BỤNG,
TIỂU TIỆN KHÔNG THÔNG…
Lâu
nay đối với các bệnh nói trên, phía Tây y có cách chữa trị rất văn minh tiến bộ
nhưng phương pháp chữa thường theo thời gian chữa trị chứ ít khi chữa dứt điểm
được và thường phải qua giải phẩu nhưng ít lâu sau cũng bị đau lại.
Ở
đây tôi chỉ nói về các cách chữa bệnh này theo phương pháp châm cứu nhưng không
theo lối châm cứu cổ truyền mà châm cứu mới dựa theo tây y nghãi là dựa theo
các bệnh chứng, triệu chứng và hội chứng của tây y tuỳ theo tình trạng đau cột
sống rồi phối hợp với những nguyên tắc rất thông minh của Đông y để định bệnh
Trong
phương pháp này cách chữa trị nhanh hơn, hữu hiệu hơn và đúng theo tinh thần lý
giải khoa học tây phương và đông phương cũng trong phương pháp nàykhông những
phải chữa trị CHÍNH BỆNH mà còn có thể một lúc chữa nhiều bệnh do nguyên nhân
chính ở cột sống gây ra. Phương pháp này cũng không những dựa theo chuyển hướng
của bệnh theo Đông y mà còn theo phương pháp định sự chuyễn hướng theo tây y.
Tuy
trong phương pháp này rất cần dựa theo các kết quả của các xét nghiệm của các
phim chụp X quang, siêu âm, chụp cắt lớp nhưng đôi khi việc chẩn đoán bệnh cần
nhanh chóng hơn thành ra phải suy đoán theo những lý luận liên hệ đến cột sống
và theo kinh nghiệm tôi nhận thấy có nhiều kết quả thật bất ngờ mà mau chóng,
chính xác. Nếu cần thì nên bắt mạch để xem tình trạng sức khoẻ của các Tạng, Phủ
rồi mới định bệnh
Trong
phương pháp mới này chũ yếu là phải chữa trị theo :
Hệ
thống 12 giây thần kinh xuất phát từ não
bộ
Các
đám rối thần kinh .
Cột
sống gồm các BẢY giây thần kinh cổ , MUỒI HAI giây thần kinh lưng,NĂM giây thần
kinh thắt lưng , NĂM giây thần kinh xương cùng (sacrum)
Các bộ giây thần kinh bao quanh tay, chân,các khớp chính ……
1. MIÊU TẢ CỘT SỐNG THEO Y KHOA
Cột sống là nòng cốt của thân thể. Cột sống
gồm 33 hay 34 đốt sống và giữa các đốt sống là những đĩa đệm bằng sụn.
Cột sống chia ra như sau:
7 đốt sống cổ nhưng có 8 đôi giây thần kinh
12 đốt sống lưng
5 đốt sống thắt lưng
5 đốt xương cùng bất động ( có người có 6 đốt)
Các đốt
xương cùng gắn liền với nhau thành xương cùng
Vì thế các xương mông và xương cùng thường
được gọi là xương sống giả
Các
xương sống cổ
Đốt sống cổ đầu được gọi là atlas
Đốt thứ hai được gọi là axls
Đốt thứ ba được gọi là đốt nhô ra
Ba đốt này thuộc vùng Chẫm
Từ đốt thứ tư đến đốt thứ bảy khác nhau
không mấy
Ở đốt thứ nhất hai gai hai bên dài ra
Ơ’ đốt thứ
hai hai gai ngắn lại một tí. Từ đốt thứ ba đến đốt thứ sáu các gai ngắn lại
và .
Riêng đốt thứ bảy
thì mõm gai sau dài và có thể sờ thấy nên gọi là đốt nhô.
Dưới mỗi đốt ở hai bên có hai lỗ cho các dây
thần kinh cột sống thoát ra
Các
xương sống lưng
Từ đốt thứ nhất đến đốt thứ mười ở hai bên
gai đốt sống được nối với các xương sườn (có 12 xương sườn) và dưới mỗi xương
sườn có một dây thần kinh liên sườn chạy từ các đốt cột sông và tận cùng ở hai
bên xương mỏ ác nhưng không dính vào xương và xuống thẳng hố chậu
Dưới mỗi đốt xương sống cũng có hai lỗ thoát
cho các dây thần kinh tuỷ sống thoát ra
Xương
thắt lưng
Mỗi bên xương thắt lưng trên todưới nhỏ,
phía ngoài lỗ thoát mở ra rồi thu lại theo hình lõm) phía trong bờ xương các lỗ
lại nhô ra, phía trên to phía dưới nhỏ lại) Ở các lỗ các dây thần kinh của bó
thần kinh của bó thần kinh cùng thoát vào trong.
Ở đàn ông xương mông dài xuống và cong hơn.
Còn đàn bà thì xương mông ngắn và rộng ra
Gần 1/3 người có thêm một đốt sống mông phụ và xương
cùng (sacrum)có 6 xươngđốt sống lưng
liền với xương cùngnhất. Khi thì đốt xương cụt đầu tiên gắn với xương
mông số 5. Khi xương cụt có một đốt xương mông hay xương cụt gắn vào xương mông
thì sẽ có 5 đôi lỗ mặt xương mông và như thế xương mông gài hơn xương thường.
Nhưng có khi sự gắn xương như trên chỉ thực hiện một bên mà thôi.
Xương
cụt
Trong nhiều trường hợp xương cụt có 3 hay 4
đốt xương dính vào nhau. Ở mặt trên đốt xương hướng về xương cùng. Các đốt xương
cong lại ở phía dưới và nhỏ lại như hai mấu xương tròn. Phía trong xương cụt có
một lỗ thoát cho dây thần kinh cụt đi vào phía trong
Các
đĩa đệm giữa các đốt sống
Các đĩa đệm gồm một vòng ngoài cứng gọi là
vòng sợi và ở trong là vòng chất keo. Vòng sợi tạo bởi các sợi keo (fibres
collagènes và các sợi keo (fibrocartilage) sắp theo lớp đồng tâm và được giữ bằng
sức ép của một cái nhân chất keo. Hình của các đĩa đệm hơi cônic theo đối xứng.
Ở các đốt sống cổ và thắt lưng đĩa đệm trước dày sau mỏng ở các đốt thắt lưng thì trái lại sau
cao trước thấp hơn.
Các đĩa đệm có độ dày tăng theo từ trên xuống
dưới. Mặt ngoài các đĩa đệm có một chất keo trong suốt. các đĩa đệm được giữ bằng
các dây chằng tạo thành một sự tiếp hợp giữa các đốt sống.
Tuổi càng cao, áp lực căng của đĩa giảm thì
cái nhân của đĩa co lại. Vòng đĩa mất bớt sự co giản và dễ bị rách. Theo nguyên
tắc thì đường rách bắt đầu ở nhân keo (schiuter) Phải phân biệt các đường rách
toả ra với các đường rách đồng tâm tuỳ theo sự diễn tiến của sự thoái hoá. Do
thoái hoá nên có sự xê dịch của các thành phần cấu tạo của các đĩa đệm. Các xê
dịch này và cả sự tham nhập của các chất mục trong cột sống tạo thành các cục u
Schmoei đó là bệnh thoát vị trong chấp xốp. Bệnh này rất dễ thấy khi chụp X
quang. Sau khi các vòng sợi bị dập thì cái nhân keo sẽ lồi ra phía sau hay hai
bên của ống tuỷ sống làm viêm tuỷ sống hay làm viên các rễ của thần kinh tuỷ sống
và gây ra bệnh thoát vị đĩa đệm.
Các thoát vị đĩa đệm thường xảy ra cho các đốt
sống lưng thứ 3 và thứ 4 hay các đốt sống lưng thứ 4 và thứ 5; nó cũng hay xãy
ra giữa các đốt sống cổ thứ 5 và thứ 6 hay thứ 6 và thứ 7. Cái nhân sợi có thể
bị sệ xuống sau khi bị thoát vị đĩa đệm trong trường hợp cái nhân keo bị
rách... Khi vòng sợi của đĩa đệm bị giảng ra thì sự đàn hồi của đĩa đệm cũng có
thể mất. Cũng tương quan khi các thành cốt bào xâm nhập vào đĩa đệm và tạo ra sự
hoá xương một phần của điã đệm
TUỶ SỐNG VÀ HỆ THẦN KINH CỘT SỐNG
Tuỷ sống nẳm trong ống tuỷ sống giữa một chất
nước não tuỳ hay gọi là nước đầu tuỷ, nó có hai chỗ phình ra là chỗ phình dưới
các đốt sống cổ và một chỗ phình ở vùng thắt lưng (hình 11). Ở đầu dưới thần
kinh cột sống tuỷ sống thắt lại thành hình chóp tuỷ và tận cùng bằng một bó sợi
thần kinh.
Tuỷ sống gồm hai phần đối xứng có một rảnh
giữa phía bụng và một rảnh giữa phía lưng. Ở hai bên các sợi thần kinh ở bụng
và ở lưng tuỷ họp lại hai bên thành dây thần kinh tuỷ sống. đấy là những đoạn
thần kinh dài độ 1cm thoát ra bằng hai lỗ tiếp hợp ở hai bên đốt sống. Các rễ
thần kinh lưng mang những Hạch thần kinh cột sống. Chỉ có rễ thần kinh thứ nhất
của dây thần kinh cồ là không có hạch hay chỉ là một hạch thô sơ.
HỆ THẦN KINH TỰ CHỦ
Hệ thần kinh tự chủ là hệ thần kinh cột sống
từ trên xuống đến tận cùng. Hệ thần kinh não bộ là hệ thần kinh điều khiển theo
ý chí.
Trong khi ta ngủ thì hệ thần kinh tự chủ điều
hành toàn bộ các bộ phận và cơ quan của cơ thể duy trì sự sống.
Do đó nếu hiểu rõ sự điều hành và nhiệm vụ của
hệ thần kinh này ta có thể đoán được bệnh
lý và định vị nơi bị bệnh khi có bệnh.
Nhiệm
vụ của từng dây thần kinh tuỷ sống
Các dây thần kinh C1, C2,
C3, C4 điều khiển các bộ phận sau đây
Các mạch máu của nồi sọ: hạch tai: mắt: hạch
chân bướm, khẩu cái: các tuyến lệ; hạch tai, các tuyến nước bọt; hạch dưới hàm;
các tuyến dưới hàm và dưới lưỡi; các mạch máu ngoại biên ở sọ và mặt; thanh quản,
phế quản, khí quản phổi và đám rối phổi. Cuối cùng là tim.
C1, C2, C3 lo việc vận hành não bộ
Từ C4, C5, C6, C7 và T1 vận hành hai tay, vai cổ
Từ C5 đến T5 các dây thần kinh này chủ yếu vận
hành Tim, mật, tuỵ tạng, tuyến thượng thân và thận, ruột non, ruột già, bàng
quang và bộ sinh dục, tiết niệu, các hạch mạc treo tràng trên, tràng dưới.
Từ T10, T11, T12 vận hành tuyến thượng thận,
thận, tiểu tràng (ruột non), đại tràng (ruột già)
Dây thần kinh L1 vận hành hạch mạc treo
tràng trên và ruột non
Dây thần kinh L2 vận hành đám rối gián mạc
treo tràng, đám rối hạ vị trên và cả đại tràng, bàng quang cùng cơ quan sinh dục,
tiết niệu.
Từ T12 đến dây thần kinh xương cụt các dây
thần kinh này cùng vận hành từ thận ruột non ruột già bàng quang cùng cơ quan
sinh dục, tiết niệu.
Từ T12 đến dây thần kinh xương cụt các dây
thần kinh này cùng vận hành từ thận ruột non ruột già bàng quang cơ quan sinh dục
và tiết niệu.
Riêng các dây thần kinh S2, S3 S4 chủ yếu vận
hành Đại tràng, bàng quang, cơ quan sinh dục và tiết niệu.
Dây thần kinh L5, S1, S3 là các dây thần
kinh tạng cùng
Các dây thần kinh S2, S3, S4 là các dây thần
kinh tạng chậu hông
Dây thần kinh T7 vận hành: Tuyến mồ hôi, các
mạch máu ngoại biên và các cơ trơn, các tuyến bã phụ trách nang lông.
S2, S3, S4 là các thần kinh đối giao cảm của
thần kinh trung ương.
Khi ta nắm hiểu được nhiệm vụ các dây thần
kinh riêng biệt của cột sống ta có thể chữa bệnh dễ dàng hơn và chính xác hơn.
(ví dụ người hay chảy mồ hôi lưng, hay tay
chân ta có thể trị ở hai bên cột sống vào thần kinh T7 để kích thích cho mạnh vả
điều chỉnh mức đổ mồ hôi)
CÁC
BỆNH
LIÊN
HỆ TỚI CÁC DÂY THẦN KINH CỘT SỐNG
BỆNH
DO DÂY THẦN KINH LIÊN SƯỜN
Dây thần kinh liên sườn xuất phát từ tuỷ sống
từ đốt T1 đến T12 nằm dọc theo cạnh dưới các xương sườn. Nó liên hệ đến các bệnh
phát ra do Lục phủ ngũ tạng. Thường khi dây thần kinh liên sườn đau thì ta suy
từ dây thần kinh xuất từ đốt sống thứ mấy để đoán bệnh cho chính xác. Sự đoán bệnh
theo các dây thần kinh liên sườn đau có thể xác định đúng bệnh.
Khi bị bệnh do dây thần kinh liên sườn thì
thường chỉ đau hoặc tại một số điểm sau lưng hay trước ngực. Nếu xuất phát từ
các dây thần kinh T10, T11, T12 thì lạ hay đau ở hông hay bụng
Phần lớn khi một bệnh nhân thấy đau ở ngự
hay sau lưng thì không hẵn là các bệnh trong nội tạng như bệnh tim, phổi, dạ
dày, lá lách mà chỉ là một số điểm của thần kinh bị viêm hay thoái hoá, mặc dù
là phần đau dưới da nhưng hay cho bệnh nhân có mặc cảm là đau tim, đau phổi hay
đau dạ dày. Nếu suy từ nguyên nhân thì cũng do các tạng phủ liên hệ với đốt sống
nối với xương sườn. Ta có thể dùng ngón tay hay day tại các điểm đau độ 50 hay
100 lần thì sẽ thấy nhẹ đi nhưng muốn bớt đau và lành hẵn thì dùng kim châm dọc
theo sườn ngay tại chỗ đau và nếu chịu được lâu thì nên lấy băng keo dán cán
kim lại và lưu kim hơi lâu. Và thường thường chỉ sau từ 15 phút đến nửa giờ thì
chỗ đau đã giảm.
Bi
chú: Trong các trường hợp đau nhói ở nhiều điểm thì bệnh nhân hay nghi là mình
bị đau tim hay đau phổi hay các bệnh nặng và đến thầy thuốc thì sẻ xảy ra việc
xét nghiệm lung tung và cáng uống thuốc mà không nhằm bệnh thì bệnh càng nặng.
Theo kinh nghiệm chữa trị thì chỉ cần châm là hết ngay và hết luôn. Bệnh mới
phát mà dẹp yên thì không có vấn đề chứ để lâu thì có thể có vấn đề với các cơ
quan Tim, Phổi...
Đau
ở vùng T3: có liên quan tới phổi
Đau ở vùng T4, T5, T6 có liên quan đến Tim
Đau ở vùng T7, T8 có liên quan đến lá lách,
Tụy tạng
Đau ở vùng T9: có liên quan đến gan (phía
trước bụng là đau ở vùng dạ dày hay đại tràng).
Đau ở vùng T10: đau ở mật và tiêu hoá (đại
tràng) hay đau bụng ở hai bên rốn.
Đau ở vùng T11: đau ở vùng Lá lách, tuỵ tạng
(chính) hay đau ở tiểu trường (ruột non)
Đau ở vùng T12: đau ở vùng dạ dày (hay vùng
ruột non và trên bàng quang). Đặc biệt là khu bị đau thường ở phía sau lưng sát
hai bên hông.
CÁC THẦN KINH CỔ CỦA XƯƠNG SỐNG
Thần kinh cổ chua ra làm hai đám rối.
Đám rối cố (plexus xervical) gồm các dây thần
kinh từ A1 đến A4 đám rối này liên hệ đến các chứng đau trên đầu thường nó hay
làm ta đau phía sau gáy lên đến đỉnh đầu (hình 13)
Chú ý: Nếu tuỷ cột sống cổ mà bị sưng hay
các rể thần kinh từ C3 đến C5 thì sẽ gây ra chứng liệt màng phổi và làm bệnh
nhân khó thở. Nếu bị liệt các cơ ngực thì sự hô hấp chỉ có thể tồn tại ở từ tuỷ
cổ thông qua dây thần kinh hoành cách mô.
Các nhánh thần kinh cảm giác của đám rối cổ
sẽ đục thũng Kiêm mạc ở bên cổ và chia ra Nhánh gáy (ót) nhỏ, nhánh thần kinh
tai lớn là dây thần kinh ngang cổ hướng về phía tai, nhánh dây thần kinh trên
xường đòn gánh.
Đám rối tay (plexus brachial) gồm các dây thần
kinh từ C5 đến T1
Chú ý: Nếu một dây thần kinh nào bị đứt thì
sẽ mất cảm giác ở một vùng có tác dụng thần kinh, và sự cảm giác sẽ bị giảm đi.
Đám rối tay này nếu bị tổn thương thì suốt bờ
vai trên cho đến đầu cánh tay sẽ đau nhiều
Nếu bị tổn thương bên nào thì đau vai bên ấy.
Khi cổ và vai bị đau thì ta chỉ cần châm cứu
bên cổ phía đau theo các đốt sống từ C5 đến C7 (dưới C7 là dây thần kinh cổ C8)
CÁC
DÂY THẦN KINH NGỰC (LƯNG)
Các
xương sườn
Phía xương mõ ác thường có 7 xương sườn đầu
là dính vào xương mỏ ác thỉnh thoảng có trường hợp xương thứ 8 cũng dính vào
xương mỏ ác và thẳng hoặc chỉ có 6 xương dính mà thôi.
Trong hai phần ba các trường hợp xương sườn
thứ 10 thường tự do không dính vào đâu, nghĩa lả không dín vào sườn thứ 9.
Số xương sườn thường là 12 nhưng cũng có khi
chỉ có 11 hay 13 đôi khi có 13 sườn là có một đốt sống cổ hay một đốt thắt lưng
dính vào (hình 14)
Hai sườn cụt
Các dây thần kinh từ tuỷ sống ra ở lỗ tiếp hợp
hai đốt T11 và T12 sẽ quành hai bên hông và xuống phía trước bụng rồi chi thành
hai nhánh như càng bọ cạp ngay phía trên và trước xương mu (hình 14 và hình 15)
CÁC DÂY THẦN KINH THẮT LƯNG
Thần kinh L1 xuống ngang hông rồi quành ra
phía trước chia thành hai nhánh như càng bọ cạp ngay trước lằn nganh xương mu.
Khi tới ngang hông nó chia ra làm bốn nhánh dài: nhánh thứ nhất là thần kinh hạ
vị, nhánh thứ hai đi dọc phía trước xương hông là thần kinh chậu bẹn, nhánh thứ
ba nằm bên hông là nhánh bi ngoài thần kinh chậu hạ vị. Còn phía sau lưng nó tạo
một nhánh tiếp với L3 là thần kinh bi nông trên (hình 15).
Thần kinh L2, L1 chạy ra phía trước còn phía
sau mông là thần kinh sinh dục đùi.
Thần kinh L3 cũng ở phía sau mông là thần kinh
bi nông trên. Một nhánh ra trước đùi gọi là thần kinh bi đùi ngoài (L2, L3) và
còn có một nhánh gần bẹn là nhánh trước thần kinh đùi. Thần kinh L4, L5 là hai
dây thần kinh toạ cốt (hình 16)
CÁC DÂY THẦN KINH MÔNG
Thần kinh S1, S3 là thần
kinh bi mông dưới và thần kinh S2, S3 là thần kinh lưng dương vật (hình 15 và
16)
Các dây thần kinh S1, S2,
S3 lại tiếp với ba nhánh của dây thần kinh Thẹn để điều tiết hệ tiết niệu và hậu
môn.
CÁC BỆNH LIÊN HỆ ĐẾN DÂY THẦN
KINH CỘT SỐNG.
(từ cổ xuống xương cụt)
CÁC BỆNH CỦA XƯƠNG SỐNG CỔ
(đám rối cổ và đám rối tay)
1.
Nặng trên chỏm đầu và nhức phía trên gáy:
châm các đốt sống cổ và các dây thần kinh của C1, C2, C3 (hình 18)
2.
Nặng sau gáy và mỏi phần sau đầu hay nhức
phía dưới gáy: châm các đốt sống cổ và các dây thần kinh C2, C3 (hình 19)
3.
Đau cổ không xoay được, cứng cổ, nhức phần
sau cổ cho đến vai:châm các đốt sống cổ và dây thần kinh từ C4 đến C7
4.
Và dây thần kinh C8 cùng dây thần kinh T1
5.
Đau sau cổ, lan ra vai và bả vai, có khi đau
cả cánh tay: châm các dây thần kinh C4, C5, C6, C7, C8, T1 và cả huyệt ở vai giữa
xương đón gánh và xương bả vai, ngay các điểm đau (hình 21).
6.
Đau vai, đau ra hai cánh tay, lan ra bàn
tay, tê tay, tê các ngón tay và bàn tay: châm như phần trên thêm các huyệt ở
cánh tay và bàn tay (hình 22) riêng về tê tay, bàn tay, các ngón tay thì dùng
kim tam lăng hay kim Lancet của y khoa chích các đầu ngón tay và nặn máu rồi
châm ở các kẻ ngón tay.
7.
Té lộn ngược đầu hay bị chấn thương ở ngang
các đốt sống cổ C4, C5 hay C5, C6: trong các trường hợp này thì châm ngay kim
vào giữa các đĩa đệm C4, C5, C6, C7 vì các đĩa đệm này bị chèn và viêm, để lau
sẽ đau nhiều. khi bớt viêm sẽ hết đau. Nhớ châm thêm các huyệt ngang với các
huyệt trên cách cột sống cổ đột 2 cm (nghĩa là châm ngay các dây thần kinh C4,
C5, C6, C7 khi vừa ra khỏi các lỗ tiết hợp đốt sống (hình 24)
8.
Nếu đau cổ không quay cổ được và không
nghiêng cổ được thường gọi là TRẸO CỔ
hay TRẶC CỔ (chứng TORTICOLIS) trong chứng đau này nếu không có kim hay
gặp người sợ châm cứu thì lấy các ngón tay cái và ngón tay trỏ bấm 40 hay 50
cái ở hai bên xương cổ ngay các điểm đau nhưng nhớ ban đầu bấm nhẹ, rồi dần dần
bấm mạnh
9.
Đau phía sau tai: do dây thần kinh chẩm nhỏ
(C2, C3) nên châm hai bên đốt C2, C3 và phía sau tai ngay chỗ đau (hình 24/1)
10.
Đằng phía sau và dưới trái tai hay đau ngang
cổ, dưới cằm (thần kinh cỏ ngang): Châm bên phía đau của đốt sống cổ C2, C3 và
ngay chỗ đau (hình 24/2)
11.
Đau sâu chẩm: Châm bên đốt sống cổ C3 và
ngay điểm đua (hình 24/3)
12.
Đau trên đòn xương quai xanh: Châm bên đốt sống
cổ C3, C4 và ngay chỗ đau (hình 24/5)
Chú ý: Nếu đau cổ mà nhức đầu
không chịu nỗi hay bị nặng trên đỉnh đầu thì phải châm thêm 25 kim trên đầu và
lưu kim 1 giờ, nhưng sau 20 phút thì đã nhẹ dần. Nhiều khi đau đầu rồi dẫn đến
đau cổ luôn.
13.
Đau tức ngực khó thở (cả hai buồng phổi) hay
đau tức ở hoành cách mô bên trái: theo cơ thể học thì đây là do hai dây thần
kinh xuất từ các đốt sống cổ 3 và 4 bị liệt. hai dây thần kinh này xuất từ hai
bên đốt sông cổ số 3 và 4. Nó đi dọc hai bên cuống phổi xuống phủ lên phía trước
hai lá phổi rối cho các nhánh thần kinh nhỏ tràn xuống phủ lên hoành cách mô và
phía bụng trên có dạ dày. Những người bị bệnh nặng nằm ngữa nhiều ngày bị liệt
cổ nên phát ra tức ngực khó thở.
Châm: hai bên các đốt sống
cổ 3 và 4 và phía trước ngực tại kẻ các xương sườn 1, 2, 3, 4, 5 và dưới hai
núm vú (hình 24/6)
CÁC BỆNH CỦA CÁC ĐỐT SỐNG
LƯNG (HAY NGỰC)
Ngoài các cơn đau nhói ở một
số điểm sau lưng và dọc các sườn (đau thần kinh liên sườn đã nói ở phần trên
thì các dây thần kinh liên sườn từ T1 đến T12 nhất là đau trước ngực:
1.
Đau trước ngục dưới xương quai sanh: do các
dây thần kinh T1 và C5 đến C7
Ta
nên châm về phía đau và bên các đốt sống cổ C5, C6, C7 hay T1
Khi
đau hai bên xương mỏ ác thì ta nên xem cho đúng là đau ngang sườn thứ mấy để biết
đau ở đốt sống ngực số mấy rồi mới châm/
Ví
dụ đau ngang giữa sườn số 1 và số 2 thì châm bên đốt sống C5 đến C7
Đau
ngang giữa hai sườn số 2 và số 3 thì châm bên đốt C8 và T1 ngay chổ đau (đau
trên vai và tay).
Đau
ngang hai sườn 3 và 4 thì châm bên đốt T2, T3 (đau sốt cảm)
Đau
ngang hai sườn 4 và 5 thì châm bên đốt T4 (đau về các bệnh liên hệ đến tuần
hoàn)
Đau
ngang hai sườn 5 và 6 thì châm bên đốt T5 (đau về tim)
Đau
ngang hai sườn 6 và 7 thì châm bên đốt T6 và T7 (đau về gan, mật, nhức mỏi)
Đau
từ dưới xương mỏ ác xuống đến rốn thì châm bên các đốt T8, T9 (đau về gan, mật)
Dua
nganh hai bên rốn thì châm bên đốt T10 (đau về tiêu hoá, đại tràng)
Đau
ngang bụng dưới thì châm bên các đốt T11, T12 (đau về tiết niệu)
CÁC
BỆNH CỦA 5 ĐỐT THẮT LƯNG
Đau
ở sau lưng, hai bên các đốt sống lưng từ L1 đến L5: đau ở đâu châm ở hai bên đốt
sống, cách đốt sống 1cm châm sâu ít nhất 2 cm ở chổ lõm, lưu kim 1 giờ và sau
20 phút sẻ thấy giảm đau dần, nếu còn đau ở phía trên hay phía dưới thì châm tiếp
hai bên đốt trên hay dưới.
PHẦN
QUAN TRỌNG
ĐAU
THẦN KINH TOẠ nếu chữa đúng sẽ lành trong 1,2 hay 3 hôm
1.
DỌC THEO BÊN NGOÀI ĐÙI: châm chỗ lõm cách 1
hay 1,5ĐAU Ở SAU MÔNG KÉO XUỐNG cm (tuỳ người nhỏ hay lớn) bên đốt L2 bên phía
đau. Nếu đau cả hai bên thì châm hai bên.
2.
ĐAU Ở SAU MÔNG, CHẠY QUA NGANH THẮT LƯNG XUỐNG
PHÍA TRƯỚC ĐÙI QUÀNH VÀO TRONG ĐÙI: châm chỗ lỏm cách 1 hay 1,5 cm (tuỳ người
nhỏ hay lớn) bên đốt L3 bên phía đau. Nếu đau cả hai bên thì châm hai bên.
3.
ĐAU Ở SAU MÔNG QUA NGANG THẮT LƯNG RA PHÍA
TRƯỚC ĐÙI, QUA ĐẦU GỐI XUỐNG PHÍA TRONG CẲNG CHÂN châm chỗ lỏm cách 1 hay 1,5
cm (tuỳ người nhỏ hay lớn) bên đốt L4 bên phía đau. Nếu đau cả hai bên thì châm
hai bên.
4.
ĐAU Ở SAU MÔNG QUA PHÍA BÊN NGOÀI ĐÙI XUỐNG
CẲNG CHÂN, MẮT CÁ VÀ PHÍA TRÊN BÀN CHÂN châm chỗ lỏm cách 1 hay 1,5 cm (tuỳ người
nhỏ hay lớn) bên đốt L5 bên phía đau. Nếu đau cả hai bên thì châm hai bên.
5. ĐAU
Ở SAU MÔNG (PHẦN DƯỚI CÁC ĐỐT XƯƠNG THẮT LƯNG) XUỐNG MÔNG RỒI CHẠY THẲNG XUỐNG
PHÍA NGOÀI VÀ SAU CẲNG CHÂN XUỐNG GÓT CHÂN RỒI BÀN CHÂN Châm chỗ lõm của lỗ thứ
nhất ờ xương mông (đè ngón tay trỏ để nhận rõ vị trí) là đốt S1 (xem hình 31)
ĐAU BỆNH ĐƯỜNG TIỂU (ĐI NHIỀU
LẦN, ĐI YẾU, ĐI SỐT, ĐI BUỐT HAY ĐI LÂU PHẢI RẶN) VÀ ĐƯỜNG TIÊU HOÁ (ĐI CẦU NHIỀU
LẦN VÀ PHÂN NHÃO)
Châm vào các lỗ S2, S3, S4 trên xương mông
(đi theo đường xiên từ trên xuống xương cùng ) (xem hình 32)
ĐAU CÁC BỆNH VỀ CHÂN SAU KHI BỊ LIỆT VÌ TAI
BIẾN MẠCH MÁU NÃO HAY CÁC BỆNH LIỆT CHÂN KHÁC (bất kỳ do nguyên do nào) (xem
hình 33 cho toàn khúc này)
CHÂN KHÔNG BƯỚC TỚI ĐƯỢC
Châm bên chỗ lõm phía chân liệt (cách đốt sống
1 hay 1,5 cm) châm cạnh các đốt thắt lưng (về phía chân bệnh) L2, L3.
CHÂN KHÔNG BƯỚC LUI ĐƯỢC
Như trên và châm cạnh các đốt thắt lưng (về
phía chân bệnh) L5, S1 (hình 33/1)
CHÂN KHÔNG XOAY ĐƯỢC VỀ PHÍA PHẢI (xoay
ngoài) châm cạnh các đốt L5, S1.
CHÂN KHÔNG XOAY ĐƯỢC VỀ PHÍA TRÁI (Xoay trong) châm cạnh
các đốt L1, L3 (xem hình 33/2)
Ngồi
mà chân không đưa về trước được Châm cạnh các đốt L3, L4
NGỒI
MÀ CHÂN KHÔNG ĐƯA VÀO ĐƯỢC Châm cạnh các đốt L5, S1 (xem hình 33/3)
BÀN
CHÂN SÀ XUỐNG KHÔNG CẤT LÊN ĐƯỢC Châm cạnh các đốt S1, S2
BÀN
CHÂN KHÔNG ĐƯA LÊN ĐƯỢC Châm cạnh các đốt L4, S5 (xem hình 33/4)
BÀN
CHÂN KHÔNG NGHIÊNG VÀO TRONG ĐƯỢC châm các đốt L4, l5
BÀN
CHÂN KHÔNG NGHIÊNG NGOÀI ĐƯỢC Châm cạnh các đốt L5, S1 (xem hình 33/5)
GẤP
NGÓN CHÂN XUỐNG KHÔNG ĐƯỢC Châm cạnh các đốt S1, S2
ĐƯA
CÁC NGÓN CHÂN LÊN TRÊN KHÔNG ĐƯỢC Châm cạnh các đốt L5, S1 (xem hình 33/6)
BÀN
CHÂN BỊ NGHIÊNG TRONG Châm cạnh các đốt L4, L5
BÀN
CHÂN BỊ NGHIÊNG NGOÀI Châm cạnh các đốt L5, S1 (xem hình 34)
ĐAU CÁC BỆNH ĐAU Ở TAY
SAU KHI BỊ TAI BIẾN HAY BỊ LIỆT VÌ LÝ DO KHÁC (HÌNH 35)
CÁNH
TAY DUỖI THẲNG KHÔNG ĐƯA RA SAU ĐƯỢC châm cạnh đốt cổ C6, C8 phía bên tay liệt
CÁNH
TAY DUỖI THẲNG KHÔNG ĐƯA RA TRƯỚC ĐƯỢC châm cạnh đốt cổ C5 phía bên tay liệt
(hình 35/1)
CÁNH
TAY DUỖI THẲNG NHƯNG BÀN TAY KHÔNG XOAY RA PHÍA NGOÀI ĐƯỢC châm cạnh đốt cổ C5
CÁNH
TAY DUỖI THẲNG NHƯNG BÀN TAY KHÔNG XOAY RA PHÍA TRONG ĐƯỢC châm cạnh đốt cổ
C6,C8 (HÌNH 35/2)
CÁNH
TAY CO CỨNG Ở KHUỶU NHƯNG KHÔNG ĐƯA VÀO ĐƯỢC châm cạnh đốt cổ C6, C8
CÁNH
TAY CO CỨNG Ở KHUỶU NHƯNG KHÔNG ĐƯA RA TRƯỚC ĐƯỢC châm cạnh đốt cổ C5 (HÌNH
35/2)
CÁNH
TAY CO LẠI, BÀN TAY NẮM CHẶT SẤP LẠI NHƯNG KHÔNG NGỮA RA ĐƯỢC Châm đốt cổ C6
CÁNH
TAY CO LẠI, BÀN TAY NẮM CHẶT NGỮA RA NHƯNG KHÔNG QUAY SẤP LẠI ĐƯỢC Châm đốt cổ
C7, C8 (HÌNH 35/3)
BÀN
TAY DUỖI NHƯNG NGÓN CÁI DUỖI THẲNG VÀ KHÔNG GẤP LẠI ĐƯỢC: châm đốt cổ C8, T1
BÀN
TAY DUỖI NHƯNG NGÓN CÁI GẤP LẠI VÀ KHÔNG DUỖI RA ĐƯỢC: châm đốt cổ C7, C8 (HÌNH
35/4)
BÀN
TAY DUỖI THẴNG NGÓN CÁI DUỖI THẲNG NHƯNG KHÔNG KHÉP VÀO BÀN TAY ĐƯỢC châm đốt cổ
C7, T1
BÀN
TAY DUỖI THẴNG NGÓN CÁI DUỖI THẲNG NHƯNG KHÔNG ĐƯA RA ĐƯỢC châm đốt cổ C6, T1
(HÌNH 35/5)
Trường
hợp sau do dây chằng cổ tay thứ nhất phía bàn tay bị liệt ở các đốt cổ trên
(1rst carpometacarpal joint)
CÁNH
TAY CO LẠI NHƯNG KHÔNG DUỖI RA ĐƯỢC: châm đốt cổ C7, C8
CÁNH
TAY DUỖI RA NHƯNG KHÔNG CO LẠI ĐƯỢC: châm đốt cổ C5, C6 (HÌNH 35/6)
BÀN
TAY THẴNG LIỆT KHÔNG ĐƯA RA TRƯỚC ĐƯỢC: châm đốt cổ C6, C7
BÀN
TAY THẴNG LIỆT KHÔNG ĐƯA RA SAU ĐƯỢC: châm đốt cổ C6, C8 (HÌNH 35/6)
Đây là bệnh liệt cổ tay (radiocarpal
joint)
LỊÊT
KHỚP BÀN NGÓN TAY VÀ KHỚP ĐỐT NGÓN GẦN ĐỐT NGÓN XA: Muốn đưa lên châm đốt cổ
C7, C8
Muốn
đưa xuống và gấp lại: châm đốt cổ C7, C8 (HÌNH 35/7/A)
Từ ngón 2 đến ngón 5
BÀN
TAY LIỆT KHÔNG KHÉP ĐƯỢC CÁC NGÓN TAY: châm
các đốt cổ C7, C8 (hình 35/7/B)
CÁC
KINH NGHIỆM LÂM SÀN CẦN BIẾT
1. Khi
tuỷ sống gãy các dây thần kinh tuỷ sống bị viêm nganh các đốt cổ C3 đến C5 thì
hoành cách mô bị liệt và ép sự hô hấp nên khó thở.
Phần khác khi CÁC CƠ NGỰC BỊ LIỆT SẼ BỊ NGHẸT
THỞ TỪ TUỸ CỘT SỐNG QUA thần kinh hoành
Như thế khi khó thở hay nghẹt thở thì nên
châm theo CÁC THẦN KINH HOÁNH CÁCH MÔ sẽ làm dễ thở trở lại. Cũng nên châm thêm
trên các đốt cổ từ C3 đến C5 và cả hai bên BA đốt cố ấy (xem hình 36) (cách tìm
cột sống cổ 2 cm đến 2,5 cm)
2. Khi
một bệnh nhân bị khó thở thì phải châm ngay ở hai bên xương mỏ ác ngay tại các
kẻ sườn 1,2,2,3,3,4,4,5,5,6 thì sẽ dể thở
ngay vì ngay dưới các kẻ sườn ấy có các HẠCH BẠCH HUYẾT nên khi châm kim vào
thì kim sẽ kích thích các bạch huyết cầu tái lập lại sự bình thường cho các thần
kinh bị viêm hay các cơ bị liệt (xem hình 37)
VẬY:
KHI MỘT NGƯỜI BỊ CHỨNG NGHẸT THỞ HAY KHÓ THỞ
thì lập tức lấy 10 kim châm ngay vào nách các xương sườn từ trên cổ xuống
đến cuối xương MỎ ÁC (hình 38) kim sẽ tác động vào các HẠCH BẠCH HUYẾT ĐỂ GIẢI
TOẢ SỰ VIÊM TUỶ SỐNG CỔ NGANH CÁC ĐỐT TỪ C3 đến C5. Chỉ sau 10 phút là đã dể thở.
Nếu
chưa dể thở thì châm thêm dọc hai nhánh của DÂY THẦN KINH HOÀNH CÁC MỘ. Bên tây
y chỉ biết cho thở khí oxy mà thôi (xem hình 39)
3. Khi
phần trên của xương quai xanh bị viêm thì CÁC CƠ CỦA VAI SẼ BỊ LIỆT nên người bệnh KHÔNG ĐƯA TAY
LÊN ĐƯỢC. Sự liệt phần trên của Đám rối cánh tay (gọi là liệt ERB cũng có thể
do BONG GÂN VAI khi người đàn bà sinh sản hay cánh tay đổi sai trong khi ĐÁNH
THUỐC MÊ
Nếu phần trong xương QUAI SANH bị LIỆT (gọi
là liệt KLUMPKE) THÌ TA SẼ BỊ liệt các cơ trong bàn tay. Có khi liệt CẢ NHỮNG
CƠ GẤP Ở CỔ TAY (hình 40)
4. Nếu
một dây thần kinh của ĐÁM RỐI CÁNH TAY BỊ ĐỨT THÌ SẼ MẤT HOÀN TOÀN CẢM
GIÁC trong vùng cảm giác của thần kinh
này hay sẽ mất bớt khả năng CẢM GIÁC (XEM CHUNG HÌNH 40)
5. Nếu
THẦN KINH CHÍNH GIỮA TAY (NERF MÉDIAN) của đám rối cánh tay BỊ VIÊM THÌ CÁNH
TAY SẼ BỊ MẤT SỨC NỘI CHUYỂN VÀ CỔ TAY CŨNG KHÓ GẤP LẠI. Trong bàn tay thì LỰC
GẤP của đốt trong, đốt giữa không còn nữa và điều này chứng minh 3 NGÓN ĐẦU
KHÔNG GẤP LẠI ĐƯỢC (HÌNH 41) Có thể châm thêm các đốt cổ từ C6 đến T1 (hai bên các đốt này cách tim 2 đến
2.5 cm).
6. Trong
dây thần kinh KHUỶU TAY (nerf ulnaire) bị viêm thì sẽ có hiện tượng khuỷu tay gấp
lại: các ngón tay duỗi ra không thẳng (chỉ đến các đốt tay giữa) nhưng khi gấp
ngón thì chỉ đến mức các lóng gần và lóng giữa, đó là do sự liệt các cơ nối lóng và ngón cái không sờ được
ngón út (hình 42) Ta có thể châm hai bên các đốt cổ C8 và T1
7. Dây
thần kinh giữa dưới da cho một nhánh ở dưới nách nhưng khi vai bị trặc hay gảy
khúc trên của xương cánh tay trên thì sẽ làm sưng dây thần kinh nách và gây ra
sự tê da của khúc xương cụt ở vai (hình 43) Ta có thể châm các đốt cổ C5, C6.
8. Việc
sưng (viêm) đoạn thần kinh ở khúc tay làm LIỆT các cơ duỗi nhất là đoạn ở gần
bàn tay nơi mà bàn tay tuý xuống như cổ cò và đó là bệnh trạng của sự liệt dây
thần kinh xuyên này (nerf radia). Bàn tay và ngón tay không duỗi ra được và do
đó bàn tay mềm nhũn rơi xuống dưới (hình 44) châm các đốt cổ C5, C8.
LƯU Ý:
Các dây thần kinh ngực được
chia ra làm hai phần
Một phần phía lưng và phần
trước là phần bụng
Một phần nhánh gồm một
nhánh trong và một nhánh ngoài. Cả hai liên hệ đến các cơ của lưng, các dây
trong liên hệ đến các cơ sâu của lưng còn các nhánh ngoài thì các nhánh lưng.
Phạm vi của các nhánh lưng của các dây thần kinh cổ rộng và gồm cả vùng chẩm.
Ngang vùng y thần kinh xương mông mông các nhánh thần kinh lưng của các dây thần
kinh thắt lưng từ L1 đến L3 và các dây thần kinh mông S1 đến S3. Về các nhánh bụng
của các dây thần kinh liên sườn chạy dọc theo các xương sướn, trước hết là mặt
trong của ngực và các phần trong của các cơ phía trong, về các thần kinh liên
sườn này thì ta chi ra hai phần là phần trên và phần dưới.
Về nhóm thần kinh trên ta
có 6 (sáu) thần kinh từ T1 đến T6 chúng dính vào XƯƠNG MỎ ÁC về phía trước và liên hệ với các cơ liên sườn,
các cơ nhỏ phía dưới cả phần trên lẫn phần dưới và các cơ chéo và cơ tam giác của
ngực (hay các cơ tam giác của xương mỏ ác)
Về phần dưới (từ T7 đến
T12) theo dọc các sườn không dính với xương mỏ ác nó gây cảm giác ở các cơ đính
và cơ xuyên của bụng, cơ chéo ngoài, cơ chéo trong, cơ thẳng hai bên và cơ hình
tháp của bụng.
Đặc
điểm
Dây
thần kinh liên sườn số 1 dự phần với đám rối cánh tay và chỉ đưa
vào liên sườn một nhánh nhỏ;
Dây thần kinh liên sườn số 2 và số 3 cho
một nhánh nhỏ vào dưới da bên cánh tay.
Dây thần kinh liên sườn thứ nhất tiếp
giao với dây thần kinh da và ở giữa tay.
Dây thần kinh liên sườn cuối cùng: chạy
phía dưới xương sườn thứ 12 nên gọi là thần kinh hạ sườn (subcostal). Nó đi
chéo về phía dưới mõm hôn (hình 45)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét